Cửa số 3 – một trong 13 cửa ra vào của địa đạo Vịnh Mốc
(Ảnh: Ngô Văn Minh)
Địa đạo Vịnh Mốc nằm trên địa phận thôn Vịnh Mốc và thôn Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị; cách thành phố Đông Hà - trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị khoảng 38km về phía bắc; cách thị trấn Hồ Xá - huyện lỵ Vĩnh Linh khoảng 15km về hướng đông nam; cách UBND xã Vĩnh Thạch khoảng 3km về phía đông bắc.
- Đường đến địa đạo Vịnh Mốc đi theo hai hướng chính:
+ Hướng thứ nhất: Từ Bắc vào hoặc từ Nam ra theo quốc lộ 1A đến km 712+072 thuộc địa phận xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh (phía bắc di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải), rẽ theo tỉnh lộ ĐT574 (Tỉnh lộ 70 cũ) hướng về bãi tắm Cửa Tùng, qua cầu Đúc 100m, tiếp tục rẽ phải theo đường Quốc phòng/đường du lịch ven biển (tuyến đường chạy ven biển từ Cửa Tùng đến di tích địa đạo Vịnh Mốc) khoảng 6 km sẽ đến địa điểm di tích tọa lạc.
+ Hướng thứ hai: Từ Bắc vào hoặc từ Nam ra theo Quốc lộ 1A đến km 721, thuộc địa phận thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh, rẽ trái theo đường ĐT572 (đường Cáp Lài) ngã 3 đường của thôn An Đông rồi rẽ trái theo đường liên xã đến ngã tư giao với 2 nhánh đường về UBND xã Vĩnh Thạch, tiếp tục rẽ trái khoảng 2km thì đến khu vực di tích tọa lạc.
- Tên gọi địa đạo Vịnh Mốc: Đây là tên gọi một di tích lịch sử và là tên gọi của một làng quê miền biển Vĩnh Linh, Quảng Trị - làng chài Vịnh Mốc. Tên địa danh này được người dân địa phương ghép lại từ hai chữ “Vịnh” (vùng biển được tạo thành do 2 mũi đất là mũi Lay và mũi Si ăn sâu ra biển tạo thành một đường vòng cung); và từ “Mốc” tức là cột mốc được dựng để phân định ranh giới đất đai giữa hai thôn Vĩnh Ân và Thừa Luật.
Trong những năm chống Mỹ cứu nước, Vịnh Mốc không chỉ là địa đầu miền Bắc Xã hội chủ nghĩa mà còn là địa điểm thuận lợi cho việc tập kết lương thực, vũ khí tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, một đảo có vị trí chiến lược quan trọng trong việc án giữ vùng biển Vĩnh Linh, cách Vịnh Mốc 28km về phía đông.
Nguyên gốc, hệ thống địa đạo này gồm 3 địa đạo chính: Địa đạo của Đồn Biên phòng 140 (Đồn Biên phòng Cửa Tùng bây giờ), địa đạo của quân dân Vịnh Mốc và địa đạo của quân dân Sơn Hạ. Sau đó, yêu cầu phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, 3 địa đạo này được nối thông với nhau thành một hệ thống liên hoàn khép kín với quy mô khá lớn.
Cổng chào di tích QGĐB Địa đạo Vịnh Mốc
(Ảnh: Ngô Văn Minh)
Địa đạo này được khởi công đào từ tháng 4 năm 1966 và cơ bản hoàn thành vào tháng 12 năm 1967. Trong thời gian gần 2 năm, với 18 ngàn ngày công đã vận chuyển khoảng 6.000m3 đất đá ra bên ngoài tạo thành một hệ thống địa đạo liên hoàn có tổng chiều dài đường hầm là 1.060,25m. Đây là một trong những địa đạo có cấu trúc, quy mô lớn về chiều dài lẫn độ sâu, cách mặt đất từ 10 - 23m; chiều cao đường hầm từ 1,6 - 1,9m, rộng từ 0,9 - 1,2m. Từ trục chính toả ra nhiều nhánh, mỗi nhánh thông với một cửa ra vào. Địa đạo có tất cả 13 cửa ra vào, 7 cửa hướng ra phía biển và 6 cửa thông lên đồi. Hai bên trục đường hầm cứ cách 3 - 5m có những ô được đào sâu vào trong vách để tạo ra các căn hộ, nơi ở và sinh hoạt cho các gia đình. Địa đạo chia làm 3 tầng: Tầng 1 là nơi sinh sống của nhân dân, có độ sâu cách mặt đất từ 8 - 10m, chiều dài 421,82m; tầng 2 là nơi đóng trụ sở của Đảng uỷ, Uỷ ban và Ban Chỉ huy lực lượng vũ trang (Đồn 140), có độ sâu cách mặt đất từ 12 - 15m, chiều dài 508,08m; tầng 3 chủ yếu là nơi cất dấu hàng hoá, vũ khí phục vụ cho công tác chiến đấu, chi viện cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường miền Nam, có độ sâu cách mặt đất 20 - 23m, chiều dài 130,35m. Mặt bằng đường hầm được đào nghiêng từ 20 - 30 để dễ dàng thoát nước. Trung tâm địa đạo có Hội trường với sức chứa khoảng 50 - 60 người, được coi là ngôi nhà chung của “Làng”, dùng cho hội họp, biểu diễn văn nghệ,… Ngoài ra, địa đạo Vịnh Mốc còn có đầy đủ những công trình thiết yếu để cho mọi người ổn định cuộc sống dưới lòng đất trong một thời gian dài như bếp, giếng nước, nhà hộ sinh - nơi đã chứng kiến sự ra đời của 17 đứa trẻ, trạm cấp cứu, phẩu thuật, nhà trẻ, nhà vệ sinh,… Tất cả đều được bố trí, tạo dựng một cách hợp lý, khoa học. Phải khẳng định rằng việc chuyển mọi hoạt động vào lòng đất của quân và dân nơi đây là một nghệ thuật quân sự hết sức độc đáo và sáng tạo. Mỗi làng quê trở thành một pháo đài chống giặc, mỗi người dân đồng thời là một chiến sĩ với khẩu hiệu “tay cày, tay cấy, giặc đến chiến đấu, giặc đi sản xuất”. Mặc dù phải thường xuyên đối mặt với những mối hiểm nguy và sự huỷ diệt của bom đạn Mỹ, lại phải sống và chiến đấu trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt, thiếu dưỡng khí, thiếu ánh sáng tự nhiên, mùa đông thì ẩm thấp, mùa hạ thì ngột ngạt cùng với sự thiếu thốn đủ thứ từ lương thực, thực phẩm cho đến những nhu yếu phẩm thiết yếu. Song, bằng ý chí và nghị lực phi thường quân và dân khu vực Vĩnh Linh vẫn luôn kiên trung, bất khuất và bền bỉ chiến đấu, trở thành tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lập nhiều chiến công hiển hách, nổi bật là bắn rơi 293 máy bay, bắn chìm và cháy 69 tàu chiến các loại, đồng thời phối hợp với quân dân bờ Nam tấn công vào các căn cứ hoả lực mạnh của quân đội Việt Nam Cộng hoà và nhiều chiến công khác.
Với truyền thống kiên cường, người dân nơi đây đã không quản ngại khó khăn gian khổ, một lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, đã đoàn kết, bám đất, giữ làng, kiên cường chiến đấu chống lại kẻ thù, giữ vững niềm tin vào ngày chiến thắng. Chính ý chí sắt đá và sáng tạo tuyệt vời ấy của những con người vùng đất lửa đã tạo nên những công trình phòng tránh hết sức độc đáo và vĩ đại của thế kỷ XX. Đó là hệ thống làng hầm, địa đạo nằm sâu trong lòng đất mẹ thân yêu để sau này trở thành huyền thoại. Địa đạo Vịnh Mốc đã ra đời với mục tiêu và sứ mệnh cao cả ấy, góp phần quan trọng đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn và trở thành di sản quý báu của quốc gia, biểu tượng cho tinh thần chiến đấu quả cảm, sáng tạo và anh dũng hy sinh vì chính nghĩa của quân, dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ, Vĩnh Thạch, Vĩnh Linh nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Đây là một công trình lịch sử vĩ đại dưới lòng đất, một hình thức phòng tránh hoàn thiện và có hiệu quả cao nhất, thể hiện một nghị lực phi thường, tinh thần kiên cường, bám trụ và là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam nhằm không chỉ đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn và duy trì sự sống cho con người vùng tuyến lửa trước sự hủy diệt của bom đạn mà còn có vai trò quan trọng trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường miền Nam; góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong số hàng chục ngàn di tích phân bố trên khắp đất nước Việt Nam, cùng với địa đạo Củ Chi (ở thành phố Hồ Chí Minh) thì địa đạo Vịnh Mốc là một loại hình di tích rất đặc biệt, có giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, kiến trúc. Sự ra đời và tồn tại của địa đạo Vịnh Mốc đã đi vào lịch sử dân tộc như một huyền thoại, trở thành chứng tích tiêu biểu trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của ông cha ta cho các thế hệ người dân Việt Nam nói riêng và những người yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới nói chung. Đã hơn năm thập kỷ trôi qua nhưng những giá trị và ý nghĩa lịch sử của di sản vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay, diện mạo của khu vực này đã có nhiều đổi thay, những vết sẹo chiến tranh đang dần được hàn gắn những hố bom, ổ đạn đã nhường chỗ cho những vườn cây trái xum xuê, những cánh đồng lúa xanh tươi hay những công trình phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Song, ẩn sâu trong lòng đất, Địa đạo Vịnh Mốc vẫn luôn là di sản văn hoá, lịch sử quý giá và bất biến của dân tộc, là nền tảng vững chắc để các tầng lớp nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ, Vĩnh Thạch, Vĩnh Linh nói riêng và cả nước nói chung tiếp tục phát huy truyền thống hào hùng của ông cha ta trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Hàng chục năm qua, được sự quan tâm đầu tư thích đáng của các Bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương nên nhiều hạng mục công trình bảo tồn yếu tố gốc cấu thành di tích và công trình phục vụ đã được đầu tư kinh phí để tu bổ, phục hồi, tôn tạo như: gia cố và kiên cố hóa hệ thống đường hầm; phục hồi hệ thống giao thông hào, hầm lán...; trưng bày và tái hiện cuộc sống dưới lòng địa đạo; xây dựng các công trình phục vụ khách tham quan trong khu di tích... Nhờ đó, địa đạo Vịnh Mốc không chỉ được bảo tồn mà còn khai thác và phát huy giá trị, hàng năm đón hàng ngàn lượt khách tham quan, nghiên cứu, trải nghiệm. Địa đạo Vịnh Mốc đã để lại những ấn tượng sâu đậm cho các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và khách tham quan trong nước và quốc tế: “Vịnh Mốc thực sự là biểu tượng điển hình về ý chí kiên cường và lòng dũng cảm của dân tộc ta”. Địa đạo Vịnh Mốc được ví như “một lâu đài cổ giấu kín biết bao điều kỳ lạ của con người đã làm ra nó và của thời đại mà nó được sinh ra”.
Đến địa đạo Vịnh Mốc hôm nay, được chứng kiến những hình ảnh đầy xúc động về lịch sử hào hùng của nhân dân nơi đây, về những di sản quý báu mà các thế hệ đi trước đã tạo dựng khiến cho tất cả chúng ta đều trào dâng trong lòng một niềm tự hào và ngưỡng mộ khôn xiết. Nhiều du khách trong nước và ngoài nước, nhất là các cựu binh Mỹ đặc biệt ưa thích tuyến tham quan du lịch phi quân sự này với mong muốn được hiểu hơn về những kỳ tích mà nhân dân Việt Nam đã làm được trong những cuộc chiến tranh vệ quốc. Sau khi tham quan xong nhiều du khách đã có viết những cảm tưởng tại Sổ lưu niệm di tích địa đạo Vịnh Mốc như sau: “Tôi đã từng nghi ngờ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Vì sao một đất nước nghèo và nhỏ bé như Việt Nam lại có thể chiến thắng một nước giàu có và lớn như nước Mỹ. Nhưng khi đến thăm địa đạo Vịnh Mốc, đi qua 70 mét đường hầm, tôi đã có câu trả lời cho nghi ngờ này”. Đó là cảm tưởng của một du khách người nước Đức đã ghi lại cảm xúc của mình một cách cô đọng nhưng đầy ý nghĩa sau khi thăm quan địa đạo Vịnh Mốc. Còn cảm nhận của một du khách người Australia:“Địa đạo Vịnh Mốc là một trong những thành tựu kỹ thuật vĩ đại nhất của thế kỷ XX và là một trong những chiến thắng oanh liệt nhất của loài người trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn”. Đánh giá về sự lôi cuốn của di tích đối với du khách, Trang Du lịch danh tiếng Thrillist của Mỹ đã đưa Địa đạo Vịnh Mốc vào danh sách những điểm đến hấp dẫn ở châu Á nhưng chưa được khám phá. Rung động trước lịch sử hào hùng và sự kỳ vĩ của Địa đạo Vịnh Mốc nhiều văn nghệ sỹ đã cho ra đời những tác phẩm đặc sắc về di sản văn hoá, lịch sử nổi tiếng này. Trong đó phải kể đến các tác phẩm “Có một miền quê” của tác giả Nguyễn Đăng Quang; “Tự hào đất mẹ Vĩnh Linh” của Lê Văn Hiền hay “Khúc hát sông Hiền” của Nguyễn Văn Dùng và còn rất nhiều tác phẩm nổi tiếng ca ngợi về quê hương Vĩnh Linh nữa. Để giúp người xem hình dung được một cách cô đọng tầm vóc của địa đạo, Hoạ sỹ Võ Xuân Huy đã phác hoạ lại một cách ấn tượng thông qua Triển lãm nghệ thuật thị giác mang tên “Xuống Đất gặp Trời”...
Địa đạo Vịnh Mốc hiện vẫn đang còn tồn tại cho đến ngày hôm nay là minh chứng cho quá trình lao động cần cù và là sự sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX. Sản phẩm lịch sử này đã để lại những bài học kinh nghiệm hết sức quý giá. Đó là bài học về sự vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân; bài học nắm vững quy luật phát triển của chiến tranh để đề ra và giải quyết thành công những vấn đề mà thực tiễn đặt ra; bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp, dựa vào dân, thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng sức dân..., những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.
Với tầm vóc và giá trị to lớn như vậy, Địa đạo Vịnh Mốc có một vị trí, vai trò rất lớn trong việc giáo dục truyền thống và phát triển du lịch, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng vững mạnh, mãi mãi là Di sản văn hóa vô cùng quý giá của quá khứ để lại cho hôm nay và mai sau và là điểm đến du lịch đặc sắc không thể bỏ qua khi đến với tỉnh Quảng Trị./.